NHỮNG KHẢ NĂNG LẠ LÙNG (11)

Những Khả Năng Lạ Lùng  (tt)

Breakthrough to Creativity - Shafica Karagulla 

 

Xem Mục NHỮNG KHẢ NĂNG LẠ LÙNG (các bài trước)

Vài ngày sau đó chúng tôi lại chọn một người khác đang có mặt trong phòng đợi tại Endocrine Clinic, sau này tôi mới biết là họ bị bịnh Graves. Diane thấy vòng xoáy năng lực tại cổ hoạt động quá độ, xoáy có màu đỏ cùng với màu xám đục, có nghĩa là tuyến giáp trạng bị yếu kém, hoạt động loạn xạ, dòng năng lực có nhịp điệu thất thường.
Khi nhìn vào tuyến giáp trạng cô thấy nó mềm xốp như bọt biển, không có vẻ gì là bình thường và khỏe mạnh; nó to hơn bình thường. Phần bên phải của tuyến không hoạt động tốt như phần phía trái, tuyến phó giáp trạng vẫn bình thường. Diane cho biết bịnh nhân dễ bị chóng mặt và hay cảm thấy kiệt sức.
Chẩn đoán y khoa cho thấy người này có bịnh Graves với tuyến giáp trạng bị to ra, thùy phải to hơn. Họ có mạch đập nhanh hơn, yếu sức, kiệt lực, run rẩy do thần kinh. Bản chẩn bịnh đầy đủ và cách điều trị có kèm thảo luận chi tiết hơn, nhưng câu trên tóm tắt những gì chẩn đoán y học tìm ra. Nhận xét của Diane tỏ ra rất chính xác với những gì được biết sau nhiều tuần quan sát và thử nghiệm.
Ngày này sang ngày kia theo thông lệ của mình, Diane và tôi chọn ngẫu nhiên một bịnh nhân mà không hề biết gì về bịnh trạng của họ. Chúng tôi ngồi yên lặng tại một góc của phòng đợi trong Endocrine Clinic, trong khi Diane quan sát còn tôi ghi chép. Thỉnh thoảng tôi đặt câu hỏi để làm rõ thêm điểm nào đó, hoặc để có được mô tả trọn vẹn hơn. Chồng hồ sơ bịnh lý của tôi ngày càng dầy lên, và tôi luôn ngạc nhiên về sự chẩn bịnh chính xác của Diane.
Một buổi chiều nọ tôi chọn người ngồi ghế số năm, rồi Diane bắt đầu tả về tình trạng bất bình thường của tuyến não thùy - pituitary của họ. Cô thấy xoáy năng lực ở gần cạnh đó quay chậm rồi tiếp theo là những đợt bùng lên do hoạt động quá độ trong một lúc ngắn. Xoáy có màu xám lấm tấm với đốm và những tia xẹt màu cam mà cô bảo hết sức bất bình thường.
Khi nhìn thẳng vào tuyến não thùy, cô cho thêm nhiều chi tiết.
– Một nửa tuyến có màu sáng, còn nửa kia đục. Một phần của tuyến hình như đã chết không có vẻ gì là hoạt động; phần còn lại thì hoạt động quá nhanh. Có vẻ như có sự khích động quá mức lúc có lúc không. Có thể tuyến có bướu, nhưng đường đi của năng lực thấy ở xoáy cho biết nó không phải là ung thư. Dường như việc thỉnh thoảng bị khích động gây ra tăng trưởng quá mức. Thấy là tuyến não thùy ảnh hưởng lên tuyến thượng thận.
Nhìn sâu hơn vào tình trạng thể chất của bệnh nhân cô nói họ bị tiểu đường. Cô thắc mắc về điểm này vì cô nhất quyết rằng không có gì bất thường với tụy tạng của bịnh nhân. Cô đã từng xem nhiều trường hợp tiểu đường và luôn thấy tụy tạng có can dự vào.
Chẩn đoán cho thấy có bịnh acromegaly, một bịnh của tuyến não thùy làm tăng kích thước bàn tay và bàn chân. Vùng tuyến não thùy của bịnh nhân đã bị rọi quang tuyến ba mươi lần, họ bị tiểu đường do tuyến não thùy bị rối loạn hơn là do tụy tạng.
Ngày hôm sau, trước khi vào phòng đợi của bệnh viện chúng tôi cùng đồng ý sẽ chọn người ngồi ghế thứ ba tính từ cửa ra vào. Hoá ra người này cũng mắc bịnh acromegaly. Diane tả xoáy năng lực của tuyến não thùy có màu xám đục lấm tấm với những tia xẹt đỏ và cam. Nhịp điệu nhanh, chậm thất thường.
Tuyến não thùy cho thấy có tình trạng tương tự như bịnh nhân được quan sát ngày hôm trước. Diane tả hoạt động của tuyến giáp trạng bình thường, nhưng tuyến phó giáp trạng thì lại hoạt động chậm chạp. Buồng trứng và tử cung không còn ở đó và bịnh nhân cũng bị tiểu đường.
Hồ sơ bịnh lý cho thấy bịnh nhân có bệnh acromegaly cùng với những triệu chứng đi kèm. Không thấy có buồng trứng và tử cung của bịnh nhân và người này có bịnh tiểu đường. Họ có tuyến não thùy được chữa trị bằng quang tuyến X ba mươi lần.
Hôm sau chúng tôi chọn người ngồi ghế thứ bảy trước khi vào nhà thương. Chúng tôi yên lặng ngồi xuống và quan sát bệnh nhân ngay lập tức. Diane thấy đường đi của năng lực của xoáy tại cổ họng bị rối loạn, với nhịp điệu rất thất thường, và có màu xám. Xoáy năng lực ở tuyến não thùy và tùng thái dương - solar plexus cũng bị xáo trộn.
Khi nhìn vào cơ thể  của bịnh nhân, Diane thấy ngay tuyến giáp trạng có hoạt động chậm chạp. Cô nói:
– Không có tuyến não thùy. Nó bị lấy ra rồi. Tụy tạng không hoạt động và tuyến thượng thận hoạt động rất yếu. Làm như phần bên ngoài của tuyến thượng thận không có hoạt động nào cả. Bộ ngực cũng bị ảnh hưởng nhưng bây giờ nó không còn đó. Không có đủ năng lực tuôn vào xương sống từ vòng eo trở xuống, bịnh nhân có vấn đề với chân của họ.
Hồ sơ của bịnh nhân cho thấy tuyến não thùy bị cắt bỏ và bịnh nhân được cho dùng pituitrin và cortisone. Bộ ngực bị cắt bỏ vì ung thư, lưng cũng đã có giải phẫu,và có giảm bớt sức ép lên xương sống để làm chân bớt đau, tê dại và cũng để bớt khó khăn cho bọng đái. Bịnh nhân vẫn đang dùng cortisone, pituitrin và thuốc cho tuyến giáp trạng. 
Lần kế tiếp khi vào bịnh viện chúng tôi chọn người ngồi ghế thứ chín từ cửa bước vào để quan sát. Như mọi khi Diane quan sát thể thanh và các xoáy năng lực trước hết. Cô thấy xoáy năng lực của tùng thái dương có rối loạn hết mức. Sự chuyển động của năng lực thật bất thường, cà giựt và cô thấy là năng lực bị rỉ ra từ trung tâm của xoáy. Xoáy có sắc xám, thay đổi từ xám đục sang xám nhạt có pha chút xanh lục và cam. Sắc xám của xoáy lực luôn luôn cho biết là có vấn đề trong vùng.
Nhìn vào cơ thể cô nhận xét là tuyến thượng thận bên trái đã bị cắt bỏ, và tuyến bên phải không bình thường, thấy như nó nghiêng qua bên. Cô thấy phần bên ngoài hoạt động quá mức còn bên trong thì lại hoạt động yếu ớt. Buồng trứng bên trái khônghoạt động. Thận cũng chậm lại, tuyến não thùycó vẻ tối và cô nghĩ chắc nó bị lấy ra rồi vì có vẻ không có hoạt động ở đó.
Chẩn đoán của người này là bị hội chứng Cushing, tuyến thượng thận bị xáo trộn có liên quan đến tuyến não thùy. Tuyến thượng thận bên trái cũng như một phần của tuyến bên phải đã bị lấy ra, tuyến não thùy vẫn còn đó nhưng bị ảnh hưởng nặng; không có xác định mức hoạt động chính xác của nó là bao nhiêu.
Tôi muốn Kay và Diane làm việc với nhau trong vài trường hợp này, mỗi người quan sát riêng rẽ rồi sau đó so sánh lại. Bởi Kay cảm biết hay cảm nhận trong cơ thể mình bất cứ tình trạng gì của bịnh nhân, tôi nghĩ đây là một dự án thú vị. Kay thu xếp để đến New York vài tháng và sẽ làm việc với Diane và tôi.
Sáng đầu tiên khi Kay, Diane và tôi cùng đến Endocrine Clinic, Kay cũng như Diane biết là họ sẽ quan sát những bịnh nhân có tuyến nội tiết bị xáo trộn. Trong lúc tôi bận nói chuyện với bác sĩ nội trú, hai cô ngồi trên băng trong khoa ngoại chẩn; Kay, người luôn hăng hái, quyết định quan sát thử những bịnh nhân đang ngồi trong phòng rộng đối diện cô. Hồi sau cô quay sang nói với Diane.
– Tôi tưởng mình xem người có tuyến bị xáo trộn, nhưng mỗi lần hướng vào ai đối diện với mình để cảm nhận tình trạng của họ, tôi thấy trực tràng đau hết sức.Tôi không biết có cái gì sai.
Diane đã đến đây nhiều lần, cười to và nói.
– Nhìn bảng trên cửa kìa, mình đang ngồi đối diện với phòng chữa trị trực tràng. Phòng chữa tuyến nội tiết nằm sau lưng bọn mình.
Sự lầm lẫn của Kay có giá trị như bất cứ sự quan sát nào khác của cô. Cô tin chắc là sẽ cảm thấy khó chịu hay bị đau đớn trong vùng tuyến não thùy, vùng quanh cổ họng hay vùng có liên quan đến tuyến thượng thận, vậy mà cô lại cứ thấy đau ở vùng trực tràng. Khi Diane thuật cho tôi chuyện này, chúng tôi được dịp cười bể bụng.
Tôi chọn một số trường hợp bị bịnh về tuyến giáp trạng để quan sát. Vài bịnh nhân có tuyến hoạt động quá mức, trường hợp khác thì tuyến họạt động dưới trung bình; có tuyến bị ung thư và có tuyến đầy hạt nhỏ. Người khác có tuyến đã bị lấy ra và đang có điều trị thay thế. Tôi cũng chọn người có tuyến não thùy, hay tụy tạng hay tuyến thượng thận bị xáo trộn. Kay sẽ viết xuống cảm giác của cô mà không hội ý với Diane.
Kay luôn luôn nói đúng những gì liên quan đến tuyến nội tiết. Cô hoà vào bịnh nhân và biết được bất cứ sự khó chịu nào mà bịnh nhân đang cảm thấy khi đó. Cô có thể cho tôi biết lý do chính gây ra bịnh là từ tuyến giáp trạng, tuyến não thùy, tụy tạng hay tuyến thượng thận. Cô cũng cảm được những xáo trộn đi kèm, nhưng không thể mô tả chính xác tình trạng của tuyến hay bộ phận nào.
Diane luôn luôn thấy tình trạng của cơ thể y hệt như nó là,và tả đường đi của năng lực đi kèm nó. Cô biết đó là ung thư hay chỉ là bướu lành. Cô có thể nói đó là xáo trộn về cơ năng hay là tình trạng bệnh lý; và quan sát của cô tương ứng rất chính xác với chi tiết y khoa khi tôi so sánh chúng với nhau. Cô cũng nói thật rõ ràng là một tuyến hay một phần của tuyến đã bị cắt bỏ. Trong tất cả các nghiên cứu này ở khu nội tiết, tôi không biết gì về bịnh trạng của bịnh nhân mãi cho đến sau khi hai cô quan sát xong.
Diane tỏ ra là nguồn liên tục làm tôi thích thú. Tôi khám phá ra không những cô thấy được tình trạng của cơ thể và thể sinh lực của nó, mà cô cũng thấy luôn thể tình cảm của người ta. Theo mô tả của cô, thể tình cảm này ló ra một khoảng chừng ba mươi cho đến bốn mươi lăm cm từ bề mặt của thể xác, có hình như quả trứng.Trong thể này cô thấy màu sắc và sắp xếp của năng lực cho biết trạng thái và tình trạng cảm xúc của một ai.
Buổi chiều nọ Diane đến làm việc thí nghiệm của chúng tôi như mọi khi, còn tôi thì trễ tràng chưa xong việc khám bịnh cho một bịnh nhân cũ, người này nhất định đòi gặp tôi. Bịnh nhân đặc biệt này là người hết sức vị kỷ, và đúng ra không có bịnh gì cả. Cô luôn đòi ai khác chung quanh chú ý đến cô càng nhiều càng tốt. Tôi dễ thiếu kiên nhẫn với ai muốn được chú ý tới mà không có bịnh chi hết. Sau rốt tôi nhã nhặn đưa cô ra cửa theo cách lịch sự nhà nghề nhất. Bề ngoài tôi tỏ ra không có xáo động và rất vui vẻ. Biết Diane thấy được thể tình cảm, tôi quay sang hỏi cô nghĩ gì về cảm xúc tôi hiện có. Cô trả lời một cách thẳng thắn,
– Chị đang rất bực bội và khó chịu. Bịnh nhân chọc tức chị hết sức.
– Làm sao chị biết ? Tôi hỏi, thật ngạc nhiên khi thấy cô hiểu tôi rõ quá.
Cô cười,
– Tôi thấy những chấm đỏ trải khắp hết trên thể của chị, giống như bịnh sởi vậy.
Tôi phải thú thật rằng cô nói quá đúng. Tôi kết luận là khó mà che đậy điều gì với Diane, và may là bạn của cô không biết cô có khả năng HSP này.
Một buổi chiều làm việc khác hóa ra thật thú vị. Bịnh nhân mà tôi sắp xếp để Diane quan sát không đến được. Rồi Vicky, từ bờ biển phía tây Hoa Kỳ, vừa tới bịnh viện trước khi Diane đến. Cô mệt mỏi với thời khóa biểu dày đặc của mình,và bị đau cổ nặng khi tới New York.Tôi biết bệnh sử của Vicky, nên đây là một trường hợp tuyệt hảo để làm thí nghiệm thay vào chỗ cho bịnh nhân không đến được. Tôi kêu Vicky ngồi vào chiếc ghế thoải mái, nghỉ ngơi và đừng nói gì khi Diane quan sát cô.
Diane đến và chúng tôi tiến hành với cách thức thường lệ. Vicky không có vẻ gì là bị bịnh đối với ai nhìn bình thường. Nhưng Diane thấy ngay cổ họng và thanh quản bị viêm; và theo cô bịnh nhân đã bị mất tiếng. Cô nhận xét là thể năng lực rũ xuống trông héo úa. Điều ấy cho Diane biết là người này tạm thời có sinh lực thấp và mỏi mệt vô cùng. Có một sự xáo trộn nhỏ trong hoạt động của tuyến giáp trạng, lộ qua hoạt động trồi sụt bất thường của nó. Có lẽ điều này đã xảy ra cả đời rồi; nó không quan trọng lắm nhưng có lẽ ngưòi này biết vậy.
Khi quan sát thể năng lực, cô mô tả xoáy năng lực ở cổ họng có rỉ chút ít ở ngay trung tâm của xoáy. Nó muốn nói cổ họng là điểm yếu và đối tượng dễ bị nhiễm trùng ở cổ. Có lẽ cô có khuynh hướng tằng hắng luôn để làm thông cổ.
Khi nhìn vào vùng tim, Diane thấy mức chuyển động của xoáy năng lực có thay đổi nhỏ, cho cô biết là sự tuần hoàn của tim có khuynh hướng chậm lại rồi tăng nhanh. Tôi biết tim Vicky thỉnh thoảng đập nhanh. Nhìn vào chính quả tim thể chất, Diane nói tim có dấu hiệu là hoạt động bị trục trặc vài năm về trước; nhưng điều này đã được chữa trị và nay không còn là một vấn đề nữa. Tôi thật ngạc nhiên khi Diane quan sát thấy vậy. Tôi biết Vicky bị đứng tim nhẹ nhiều năm trước vào lúc chồng cô chết, sau đó có vẻ cô hồi phục hoàn toàn. Tôi quên bẵng chuyện này, và Vicky cũng quên. Diane nói đúng về cơ năng của tuyến giáp trạng, việc Vicky dễ bị viêm họng, và cứ phải tằng hắng luôn để làm thông cổ họng.
Khi ngừng việc để nghỉ ngơi uống trà, chúng tôi trò chuyện hoàn toàn có tính xã giao, Diane quay qua Vicky và nhận xét,
–  Chị có vài khả năng HSP.
Vicky khó nói vì đang bị đau cổ nhưng tôi thấy lạ lùng muốn biết tại sao Diane lại bảo như vậy, nên tôi muốn biết thêm. Tôi hỏi Diane là Vicky có HSP loại nào và tại sao cô biết.
– Về một mặt, Diane nói, cô có thể thấy chuyện đã qua trong quá khứ nếu ráng thử. Cô cũng có thể bắt được hình ảnh có trong trí người khác, khi họ tả ra một nơi hay biến cố nào đó cho cô hay. Nếu ai có khả năng tượng hình yếu kém, lờ mờ không rõ rệt thì cô bắt được hình ảnh nhoè nhoẹt mờ mờ mà thôi.
Sau đó Diane quay sang nói với Vicky,
– Khi đi thăm những đia điểm lịch sử ở Âu Châu và Đông phương, có phải chị thấy những nơi này giống như chị mong đợi ?
Ngạc nhiên, Vicky nói,
– Phải rồi, nhớ lại chuyện này, tôi thấy chúng luôn luôn như như tôi đã tưởng tượng về chúng, và dĩ nhiên là tôi hẳn đã có thấy hình chụp hay đọc lời mô tả.
Diane nói tiếp,
– Nhưng phải có vài nơi chị chưa thấy hình của nó trước đó. Vicky nhớ lại vài chỗ như vậy. Có phải chúng giống như chị mong đợi không ? Diane hỏi, Vicky trả lời là đúng như vậy.
– Hẳn tôi có đọc bài tả về chúng ở đâu đó, Vicky trả lời có chút lạ lùng.
Diane vạch ra là nếu có hai mươi người đọc cùng lời mô tả, họ sẽ có hai mươi hình ảnh khác nhau trong trí họ, nhưng Vicky luôn luôn có hình ảnh đúng. Vicky suy nghĩ giây lát về điều này rồi kết luận là có lẽ Diane nói đúng. Trong cuộc sống bình thường, chưa bao giờ cô nghĩ tới điều là người khác không có được hình ảnh chính xác về nơi chốn, hay một địa điểm lịch sử nào đó khi họ đọc về nó. Chưa có dịp nào cô nghĩ tới việc tìm hiểu là nó không phải như vậy.
Diane nhận xét là Vicky có hai lối suy nghĩ, hoặc nói cách khác là trí óc cô có hai cách làm việc. Một là khi cô đọc hay nghe thì những hình ảnh sống động hiện ra ngay, còn cách kia có vẻ trừu tượng khó hiểu hơn vì nó không có hình ảnh gì cả. Hai phương cách mà trí óc làm việc thường hoạt động cùng lúc, nhưng ở hai mức độ khác nhau. Vicky biết điều này nhưng xem đó là tiến trình bình thường, tự nhiên, nên cô ngạc nhiên khi Diane lại thấy khác.
Tới đây tôi chen vào, hỏi Diane làm sao cô có thể phân biệt được những khả năng HSP khác nhau. Bây giờ thêm một tài lạ lùng khác của Diane được lộ ra. Khi thấy có sự kết nối giữa hai hay nhiều hơn các xoáy năng lực trong thể thanh, thì cô biết là người ta có vài loại HSP. Loại khả năng HSP riêng biệt tùy thuộc vào những kết nối và các xoáy năng lực liên hệ. Sau nhiều năm quan sát, cô thấy có sự tương quan giữa những điều này với các loại khả năng HSP riêng biệt. Những cách nối kết khác nhau cho thấy loại khả năng HSP nào sẽ thấy hay suy đoán là có nó. Tiếp theo cô nói Vicky có một số khả năng HSP khác, nhưng chúng tôi không có giờ để bàn luận và quan sát sâu xa hơn.

Chương Năm
Thể thanh của Tinh Thể Đá và Nam Châm

Tiếp tục làm việc với Diane, càng ngày tôi càng thấy lạ lùng với mô tả của cô về thể thanh bao bọc chung quanh cơ thể con người. Điều ngạc nhiên hơn nữa là sự kiện nhiều bác sĩ giỏi cũng thấy được thể này. Mỗi người trong nhóm mô tả độc lập với nhau cùng một loại hiện tượng, và có nhiều điểm tương đồng trong các diễn tả này.
Ngày nọ, tôi chợt nghĩ là biết đâu có nhiều thể thanh mà chúng ta chưa khám phá ra được bằng các phương pháp khoa học, như của thú vật, cây cỏ và ngay cả kim thạch. Lúc đó tôi đang đọc một cuốn sách của Nam tước Karl von Reichenbach, một khoa học gia nổi tiếng, hóa học gia, và kỹ nghệ gia sống vào thế kỷ vừa rồi (thế kỷ 19). Trong lúc tìm tòi và làm các thí nghiệm khoa học, ông hóa ra quan tâm đến những người xem ra nhạy cảm với điện lực do bão phát ra. Reichenbach bỏ thì giờ tìm kiếm ai có sự nhạy cảm khác thường. Ông đặt ra một chương trình thử nghiệm thật chi tiết với họ. Các cuộc thí nghiệm và kết quả có thể có giá trị lớn lao, nhưng vài kết luận không chứng cớ mà Reichenbach rút ra làm ông bị một trận bão chỉ trích. Sự tranh cãi dữ dội về những kết luận của ông đã che mất sự kiện, là kết quả thực sự của thí nghiệm, lẽ ra rất có giá trị, đã không được quan tâm đến.
Hai điểm làm tôi chú ý tới các thí nghiệm của Reichenbach. Thí nghiệm của ông với nam châm và kim loại, cũng như các tinh thể khác nhau được ghi chép cẩn thận, cho thấy có một vùng lực hay thể thanh bao quanh những vật này. Có vẻ như Reichenbach không nghĩ tới việc dùng ai có khả năng đặc biệt, để tìm xem có thể thanh bao quanh thân xác con người. Ta có thể nói không chút ngờ vực là hằng trăm người mà ông thử nghiệm có nhìn thấy thể thanh này. Ông thu thập một khối lượng dữ kiện đồ sộ, đa số là những điều lập đi lập lại. Dù gì thì những thí nghiệm lập đi lập lại đó thật hữu ích để lập ra một giả thuyết, là các thể thanh này hiện hữu. Điểm khác làm tôi tôi thích thú là sự kiện dường như ông là người đầu tiên trong buổi đương thời, dùng chữ nhạy cảm để diễn tả ai có khả năng mà ngày nay chúng tôi đặt tên cho nó là HSP.

(còn tiếp)